Thứ Ba, 20 tháng 8, 2013

Vai trò cá nhân chủ nghĩa thêm mới vào lỗi lạc trong khoa học*.

Theo các nhà toán học, sự phụ thuộc của hiệu quả hoạt động khoa học vào khả năng sáng tạo tuân theo qui luật của hàm mũ, trong đó khả năng sáng tạo của tập thể khoa học là số mũ của hàm mũ đó.

Thiếu năng lực này nhà khoa học sẽ chẳng thể xây dựng cho mình tập thể khoa học mạnh. Để thực hành việc tuyển lựa như vậy thì cần tồn tại một xã hội hội lành mạnh biết nom đánh giá đúng các công trình tác phẩm xuất sắc nhất. Và điều này chỉ có thể được thực hành trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm hoạt động của những nhà khoa học lớn và các nhà tổ chức khoa học lớn, ví như Rutherford.

Do đó việc tổ chức khoa học không chỉ cần đảm bảo những điều kiện tốt cho nghiên cứu khoa học, mà còn cần tạo ra được những điều kiện cho việc đánh giá đúng những kết quả nghiên cứu, biết cách tuyển lựa những người tài. Tỉ dụ tiêu biểu là môn phái của Rutherford tại phòng thí nghiệm Cavendish.

Việc tạo ra được cái gì đó mới chưa tồn tại trước đó thuộc hoạt động sáng tạo của con người và nếu như chúng ta định lượng được khả năng sáng tạo của con người thì chúng ta hoàn toàn có thể giải quyết được bài toán quan yếu về tổ chức khoa học, tức là xác định trước được khả năng giải quyết các vấn đề khoa học của hàng ngũ cán bộ được chọn.

Đáng tiếc là đến nay chúng ta vẫn chưa làm được điều đó. Nhà nước các tổ chức xã hội, không chỉ đánh giá đúng những thành tựu của nhà khoa học, mà còn cho họ cảm nhận được rằng hoạt động của họ cần và hữu ích cho nhân loại. Tôi nghĩ, Telne trong công trình tiệt của mình “Triết học nghệ thuật” đã giải thích duyên do của sự ra đời một đội ngũ tài năng như thế chính là do ở nước Italia phồn vinh về kinh tế khi đó đã xuất hiện một tầng lớp biết đánh giá cao nghệ thuật, hiểu đúng nó và ủng hộ những hào kiệt lớn nhất.

Trần Đức Lịch  lược dịch từ cuốn ЭКСПЕРИМЕНТ,ТЕОРИЯ ПРАКТИКА -- - * Phát biểu của Pyotr Kapitsa (1894 – 1984), nhà vật lí Xô viết, giải Nobel 1978, tại lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh (1971) của Ernest Rutherford - cha đẻ của vật lý nguyên tử.

Kinh nghiệm lịch sử cho thấy số những người có đủ khả năng sáng tạo để tạo ra ảnh hưởng rõ rệt lên sự phát triển của khoa học và nghệ thuật là rất ít.

Chất lượng tuyển chọn những nhà khoa học có thiên phú sáng tạo và tạo ra các điều kiện để phát triển nhân tài là nhân tố căn bản đảm bảo cho khoa học phát triển ở trình độ cao.

Thật vậy, lịch sử khoa học cho thấy một trường phái khoa học được chọn đúng sẽ đẩy khoa học về phía trước như thế nào. Trong tiểu truyện của Rutherford có một sự kiện rất đáng để ý. Giống như trong lĩnh vực quân sự, không có các thống soái tài tình thì chẳng thể thắng lợi. Và một trong những yếu tố giúp nhà quản lý khoa học phát hiện đúng anh tài nhà khoa học trẻ là qua nghiên cứu công trình gốc của các nhà bác học kinh điển vĩ đại.

Na ná, một hàng ngũ các nhà vật lí kiệt xuất như Maxwell, Rayleigh, Thomson, Rutherford, những người đã lần lượt lãnh đạo phòng thí điểm Cavendish của Đại học Cambridge, sẽ chẳng thể xuất hiện nếu ở Anh khi đó không tồn tại một xã hội biết đánh giá đúng và ủng hộ hoạt động của các nhà khoa học.

Chính Karl Marx đã giải thích giá cả lung tung cao của các tuyệt bút nghệ thuật là vì trong giá cả của chúng có chứa cả phí tổn cho bít tất số lượng lớn các bức tranh tranh không có giá trị nghệ thuật. Những công trình này giờ đây đã bị quên lãng vì các phương pháp được sử dụng trong đó đã cũ và những kết quả định lượng ngày nay chính xác hơn nhiều. Sai lầm chính thường gặp là người ta hay lầm lẫn khả năng nhận thức và sự hiểu biết rộng là những phẩm chất của sáng tạo.

Khi ông còn là nhà khoa học khởi đầu ở New Zealand, người ta đang tiến hành tuyển từ những người tốt nghiệp đại học để tìm ra người có khiếu nhất, nhằm trao học bổng cho anh ta nối công việc khoa học tại Đại học Cambridge.

Tôi đã từng nghe rất nhiều nhà hoạt động từng lớp cho rằng chỉ cần các viện nghiên cứu được tổ chức tốt thì khoa học sẽ phát triển. Do đó chỉ cần giảm một ít giá trị số mũ thì kết quả hoạt động sáng tạo của tập thể sẻ giảm rất mạnh. Kinh nghiệm sống của tôi chỉ ra rằng hào kiệt chính của nhà lãnh đạo của viện nghiên cứu chính là khả năng đánh giá năng lực sáng tạo của các nhà khoa học trẻ.

Ngẫu nhiên nhờ người thứ nhất không đến nhận việc nên Rutherford mới trúng tuyển. Sự lựa chọn rất khe khắt như thế cũng xảy ra trong văn chương và âm nhạc.

Hiển nhiên Rutherford đã là một trong những nhà tổ chức khoa học anh tài nhất và hào kiệt chính của ông là ở chỗ ông biết tuyển chọn những nhà khoa học trẻ theo khả năng sáng tạo của họ. Có phải đó là một sự may mắn tình cờ. Trong lịch sử khoa học, những Sai lầm như thế không hề ít và duyên cớ ở chỗ người ta không biết đánh giá phẩm chất sáng tạo của nhà khoa học trẻ, và đánh giá quá cao khả năng học thuộc tư liệu.

Trước những thành tựu đặc biệt cao trong hoạt động nghệ thuật ở Italia thời gian Phục hưng, một câu hỏi đặt ra trước các nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật: vì sao trong một sơn hà nhỏ như Italia, trong một thời kì tương đối ngắn, lại xuất hiện một hàng ngũ lỗi lạc như Rafael, Titian, Michelangelo, Da Vinci và những người khác? Suốt những năm thế kỷ sau đó một hàng ngũ tài năng như thế đã không xuất hiện.

Trở lại với câu hỏi được đặt ra ban đầu về vai trò của cá nhân trong phát triển khoa học. Điều đó không sai, nhưng theo tôi để có những thành quả lớn, các viện nghiên cứu có thể thành công mà không cần đến những nhà lãnh đạo lớn và các nhà khoa học hàng đầu. Ông cũng rất biết đánh giá đặc điểm nhân kiệt của nhà khoa học, một điều khôn cùng quan yếu để giúp anh ta phát triển năng lực sáng tạo.

Kinh nghiệm thực tế chỉ ra rằng thành công của viện khoa học phụ thuộc hoàn toàn vào năng lực sáng tạo của tập thể được chọn. Trong tổ chức khoa học khó nhất và quan trọng nhất chính là chọn được những thanh niên có thiên phú sáng tạo và tạo ra những điều kiện để tuấn kiệt của họ được phát triển đầy đủ ngay khi họ chỉ mới bắt đầu công việc.

Tôi không nhớ ai được chọn là ứng cử viên số một, nhưng Rutherford là ứng cử viên số hai. Nhưng rõ ràng để khoa học và nghệ thuật phát triển cần có một số lượng lớn các công trình khoa học và tác phẩm nghệ thuật để từ đó có thể chọn ra một phần nhỏ, phần nhỏ này thúc đẩy khoa học và phát triển nghệ thuật.

Nhưng qua nghiên cứu các công trình đó cho thấy trí tưởng tượng và sự quả cảm trong việc xây dựng các giả thuyêt khoa học, cảm nhận trực quan là yếu tố cốt quyết định thành công khoa học sau này của ông. Những người như Rutherford không chỉ là niềm kiêu hãnh của nhà nước, nơi nhà khoa học sinh ra và lớn lên, họ trở thành niềm kiêu hãnh của cả nhân loại.

Khi coi xét hiệu quả hoạt động của cơ quan khoa học, không được bỏ qua một nhân tố quan trọng cần cho hoạt động sáng tạo trong khoa học cũng như trong nghệ thuật, đó là sự trân trọng của từng lớp đối với các thành quả sáng tạo. Nghiên cứu những công trình trước hết của những nhà khoa học lớn như Rutherford sẽ rất hích.

Điều này được diễn tả qua tỉ lệ các công trình khoa học được ban bố với số lượng các công trình có ảnh hưởng đến sự phát triển của khoa học, hay trong một số lượng lớn những bức tranh của các họa sĩ, rất ít những bức tranh có thể coi là có giá trị cao về nghệ thuật.

Ngược lại, sự xuất hiện thậm chí một nhà khoa học lớn sẽ tức thì tăng mạnh mẽ hiệu quả hoạt động của cả tập thể khoa học.

Mặc dầu con đường của khoa học đã được định trước, nhưng việc khoa học tiến bước theo con đường đã định chỉ được bảo đảm bởi công trình của một số lượng nhỏ các nhà khoa học đặc biệt tài giỏi.

Như đã biết, sự phát triển của khoa học là ở việc tìm ra các hiện tượng mới của tự nhiên và tìm ra các qui luật chi phối các hiện tượng đó.