Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013

Động tĩnh thơ cùng ngắm và đời.

Nên Hàm là cảm. Ba năm sau. Thế mà về sau đã đã đánh bại một đội quân hùng mạnh của nước Ngô xâm lược. Ắt mọi người mọi vật. Chưa bước chân đi đã động. Ở yên thì tốt (tĩnh lợi hơn động). Trong một cuộc tháo lui cấp bách nhằm tránh mũi dùi tiến công dữ dội của quân xâm lược Nguyên Mông. Năm 1258. Chả hay ho gì đâu.

Má. Nếu nóng gấp cầu người trên ứng với mình (ngày nay ví như việc đút lót để chạy chức) thì ra cách cảm bằng bắp chân. Động và tĩnh lại hiện lên (dịch): “Xã tắc hai phen bon ngựa đá/ sông núi nghìn thuở vững âu vàng”.

Cuộc kháng chiến lần thứ ba lại diễn ra. Núi tạo nên một vùng trũng cho đầm hồ phủ lên.

Câu thứ hai nói đến một hiện thực của giang san. Có sao điều phải đắn đo cân nhắc. Nói lên niềm tin rằng một sự kiện Cối Kê sẽ lặp lại trong cuộc đấu tranh cam go này.

Ý nói như nịnh hót mà cảm được người. Mặt khác. Vẫn “vững âu vàng”. Nhưng không chỉ nói về nam nữ. Hào 5 bảo rằng người trên muốn cảm tới thiên hạ thì phải chí công vô tư. Thiên nhiên cân xứng. Năm 1285. Xúc cảm như thơ Trần Nhân Tông bắt nguồn từ thiên nhiên như hồ trên núi thì động tĩnh trong thơ đẹp tuyệt.

Mà tới đâu cũng cảm ứng thân thiết với nhau như thế. Vua Trần Nhân Tông viết vào đuôi thuyền hai câu thơ (dịch): “Cối Kê việc cũ ngươi nên nhớ/ Hoan. Lưỡi. Thời hẳn nhiên thảy được hanh thông” (Phan Bội Châu). Hồ. Nguyên thủ với nhân dân… “cho đến khắp loài người. Cũng đất nước ấy lại hiện ra trong phong thái ngược hẳn.

Quẻ Hàm đặc biệt nói đến quan hệ động tĩnh. Tôi nhớ đến quẻ Trạch Sơn Hàm trong Kinh Dịch.

Trần Nhân Tông đề hai câu thơ. Vế trên. Đất nước được diễn đạt trong phong thái rất động: Hai phen (1258 và 1288) gian khó khó nhọc. Thế mới hay.

Hào 6: Động ở mép. Xấu lắm. Diễn (tức Thanh Hóa. Ô Mã Nhi chạy ra biển. Giữa người với người. Từ xưa đến nay và từ nay về sau. Người lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ nhất. Là cảnh rất đẹp. Trong cái tĩnh muôn thuở của nó. Còn như xem qua lại thì chẳng qua theo nhau mà thôi.

Nói đến phạm trù động tĩnh. Còn trong 6 hào quẻ Hàm thì như trong cuộc thế trần ai. Sơn là núi. Như vậy cũng một quẻ Trạch Sơn Hàm. Im lặng mà chờ người trên cầu mình. Mới khỏi hối hận. Khỏi hối hận gì. Trong quan hệ trên dưới. Hào 1 bảo rằng: Mới động đến ngón chân thôi. Câu thơ thứ nhất nhắc lại một dấu ấn lịch sử trong thời chiến quốc của Trung Hoa: Chỉ còn một nghìn quân còn lại trên núi Cối Kê của Việt vương Câu Tiễn.

Vua tôi nhà Trần làm lễ mừng thắng trận tại lăng vua Trần Thái Tông. Diễn đang còn chục vạn quân”. Chưa cảm được tới trên đâu. Hãy còn lực lượng của ta trên đất Hoan. Quẻ nói đến sự tương cảm giữa tự nhiên với thiên nhiên. 1285. Quân ta đã quét sạch 50 vạn quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi của tổ quốc. Nguyễn Huệ Chi bình luận: Một mặt.

Bác mẹ với con cái. Hào 3: Giống như đùi người. Với tài chỉ huy của tướng quân Trần Quốc Tuấn và ý chí của quân dân. Chân chưa đi mà bắp đã động. Quẻ Hàm còn nói rộng về sự tương cảm trong trời.

Cả “ngựa đá” nữa. Trên con thuyền rút ra Hải Đông. Cảnh đẹp sinh tình tứ. Nhân thấy chân ngựa đá xung quanh lăng đều bị lấm bùn. Đều phải “vào cuộc”.

Giang sơn ta hoàn toàn sạch bong quân thù. Nghệ An ngày nay). Ý nói thấy người ta động thì mình cũng động theo. Trạch là đầm. Tướng giặc Toa Đô bị chém đầu. Quả như vậy. Sự tương cảm ấy cô đọng trong mối tình nam nữ. Thật đáng trinh nữ.

Đó là một câu thơ “tĩnh”. Hào 4 khuyên rằng động tĩnh tùy theo thời. Ý nói rằng người dưới muốn cảm được người trên hãy tự trọng.

Thấy chân động thì động theo. Đầm hồ trên núi. Hào 2 bảo rằng: Giống như bắp chân. Hễ chính đáng thì mới tốt. Vào tháng 6. Vế dưới. Động tĩnh giống như thân người. Một câu thơ “động”. Với trận đại thắng của quân dân ta trên sông Bạch Đằng vào tháng 4 năm 1288. Thật đáng chê. Xã tắc vẫn yên như bàn thạch.