Thứ Năm, 1 tháng 8, 2013

Ngày tin về của lái tàu Bùi Thái Sơn



TIN liên tưởng
Đắng lòng sau tay lái


Người lái tàu luôn găng tay do tàu chạy nhanh trong khi đường sắt vẫn chưa được cải tạo, nhiều đường ngang khiến nguy cơ đâm, va nhiều hơn

Trả xong nợ đời


Năm 2005 tại Lăng Cô, Huế, đoàn tàu SE 1 bị tai nạn làm hơn 10 người chết và gần 90 người bị thương. Sau vụ tai nạn ấy, lài tàu Bùi Thái Sơn bị kết án 13 năm ốc lái phụ Hà Minh Tâm bị kết án 7 năm tù. Mới đấy đã chục năm, nhờ cải tạo tốt, chấp hành nội quy trang nghiêm, lái tàu Bùi Thái Sơn đã được ra tù trước hạn vận.


Ngày về của lái tàu Sơn có thể nói là vẹn tròn, cuộc sống gia đình ổn định. Nhưng ông không muốn nhắc đến chuyện buồn năm ấy, hay nói đúng hơn, nỗi đau kí vãng vẫn dày vò khiến ông như muốn lẩn tránh để tìm một sự bình yên.


Tôi bảo giờ ông đã chấp hành xong bản án, có thể coi như đã trả xong nợ đời, có thể thanh thoát làm lại, sống tiếp. Nhưng ông gạt đi: “Một kẻ đã từng đi tù vì nghề thì nói ai nghe và nói ra cũng chẳng để làm gì. Hãy để tôi quên đi quá khứ”.


Ông nói thế nhưng tôi nghĩ trong ông quá cố về chuyến tàu ấy vẫn nguyên. Bằng chứng là ông không uống bia rượu để bảo đảm sức khỏe và cũng là để an toàn hơn khi đi đường. Có khách, ông mang ra mấy lon bia nhưng chỉ để mời khách mà thôi, còn ông không động một giọt.


Mỗi lần tôi hỏi ông về vụ tai nạn ấy ông đều tìm cách chối khéo, nhưng nét mặt vẫn ám ảnh nhiều day dứt muốn nói.

Gan không to thì đừng lái tàu


Ông học lái tàu từ năm 1982, đến năm 1986 thì được lái tàu. Hồi ấy đường sắt vẫn còn đầu máy hơi nước, để lên được lái tàu ông phải sang nhiều vị trí phụ như đốt than 1, đốt than 2. Rồi phải có cả nghìn cây số an toàn mới được lên lái chính. Ngày chuyển sang lái đầu máy hiện đại chạy dầu diesel, những tưởng công việc lái tàu sẽ nhàn hơn một chút nhưng chừng độ bít tất tay của tài xế lại cao hơn nhiều, do tàu chạy nhanh hơn trong khi đường sắt vẫn chưa được cải tạo, nhiều đường ngang khiến nguy cơ đâm, va nhiều hơn.


“Ai gan không to thì đừng lái tàu” - ông bảo - “Đường sắt là đường riêng rồi, vậy mà vẫn cứ đi lại như thường trên đó. Không biết bao nhiều lần tôi đã cứu được người khỏi bị tàu nghiến”.


Ông nhớ như in cái lần phanh tàu gấp năm 1999. Đêm hôm ấy, tàu đang đều đều chuyển bánh thì ông phát hiện phía trước có vật cản. Theo phản xạ, ông kéo còi nhưng vật đó không nhúc nhắc. Ông vội cho tàu hãm phanh, tim đập thình thịch. Thật may đoàn tàu phanh sát sạt... Một vài trai gái đang ngủ ngon lành trên đường ray. “Bực lắm, nhưng phải chịu. Tôi bấm còi mãi không dậy, phải xuống tận đường ray đập vào người mấy cái thì đôi trai gái mới tỉnh, chân bước không vững” - ông kể.


Cũng có lần ông cứu một người đàn ông trẫm mình định lao vào tàu. Ông phải vươn người ra trước đầu máy để đẩy người định tự tận ra khỏi đường ray. Thế mà khi tàu dừng, người đàn ông còn chửi lại tổ tàu. Anh em bức xúc lắm nhưng rồi nhịn.


Nhưng lần cứu người ông nhớ nhất là hồi năm 2001 tại đường ngang qua huyện Thường Tín, Hà Tây (cũ), xe chở các cụ đi lễ cố tình băng ngang đường ray và bị vướng. Ông và lái phụ kéo còi cảnh báo và hãm khẩn cấp. Tàu dừng kịp trước khi va vào xe của cụ. “Lần ấy chắc chỉ có điều kỳ diệu mới có thể dừng kịp tàu” - Ông kể - “Các cụ cứ ôm lấy tổ tàu cảm ơn”.

Nhớ rất nhiều


“Nghề này cũng như quân đội” - ông bổi hổi - “Lái tàu phải có tính kỷ luật cao, cả chục năm lái tàu an toàn nhưng chỉ một vụ tai nạn dù nhỏ cũng khiến công sức trôi sông”. Chỉ một câu nói thế, nhưng tôi biết ông chua xót lắm, bao lần cứu người rồi lại chính mình cướp đi mạng sống của người khác. Dễ gì quên. Năm ấy, khai báo với công an, ông nhấn mình chạy quá tốc độ, đến khi vào khúc quanh thì không dám phanh vì sợ tàu đổ. Chưa kịp xử trí tiếp thì tàu đã lật.


Sau khi bị kết án, ông thụ án ở Huế 2 năm, sau đó được chuyển ra Hải Dương. Thời kì ở tù, ông được bầu làm tổ trưởng và chấp hành án rất tốt nên được xét ra tù trước hạn. Ông bảo, lái tàu khổ lắm. “Tôi lái tàu vì niềm vui được đi đây đó, chứ không vì để lấy làm nguồn sống”. Ngày trước khi còn lái, có khi cả năm mới lấy lương một lần. Giờ khi đã chấp hành xong bản án, ông và người vợ tảo tần mở cơ sở làm giấy, thuê một địa điểm ở Xí nghiệp Giáp Bát (Hà Nội) làm xưởng với cả chục công nhân hoạt động, con cái đã trưởng thành. Cuộc sống ổn định. Hôm tôi đến gặp ông trong căn nhà nhỏ ở phố Thịnh Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội, trông ông khác nhiều, tóc bạc, dáng đậm. Nhưng ông không dám đi gặp lại anh em đồng nghiệp cũ, chỉ hiếm biết tin hiếu hỉ, ông mới đến rồi lại đi ngay. Ông nói muốn quên đi quá vãng vụ tai nạn ấy, nhưng như vậy có nghĩa ông đang nhớ rất nhiều.

Thiện Anh