Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013

Tác động của TPP đối với nông nghiệp và thêm mới nông thôn

Văn Đức Mười (*)

Cần tận dụng triệt để cơ chế bảo hộ bằng lộ trình thuế quan cho những mặt hàng nông phẩm nhạy cảm, đặc biệt là chăn nuôi. Ảnh: tao nhã.

Tuy nhiên, TPP cũng đặt ra không ít thách thức. Việc giảm thuế kiên cố sẽ dẫn đến sự gia tăng chóng vánh luồng hàng nhập khẩu từ các nước TPP vào Việt Nam với giá cả cạnh tranh.

Hệ quả tất yếu là doanh nghiệp đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, thị phần hàng hóa của Việt Nam sẽ bị thu hẹp, thậm chí là nguy cơ mất thị phần nội địa. Nguy cơ này đặc biệt nguy hiểm đối với nhóm hàng nông sản, vốn gắn liền với đối tượng dễ bị thương tổn trong hội nhập là dân cày.

Nông sản trên thị trường nội địa

Việt Nam phải mở cửa thị trường, tức phải loại bỏ 100% dòng thuế (thuế du nhập) đối với các sản phẩm nông nghiệp, trong khi rào cản kỹ thuật chưa có hoặc không cao, nên thị trường nội địa cũng gặp bất lợi.

Đối với Việt Nam, với tính chất là một nước có khu vực sinh sản nông nghiệp khá lớn, Việt Nam có nhu cầu cao trong việc yêu cầu các đối tác mở cửa thị trường nông nghiệp cho nông sản Việt Nam. Vấn đề khó khăn là ở chỗ các nước TPP đều có xu hướng thương thuyết hạn chế, giữ bảo hộ đối với nông phẩm nội địa (không mở cửa).

Vấn đề TBT (Technical Barriers to Trade - hàng rào kỹ thuật thương nghiệp) và SPS (Sanitary and Phytosanitary Measures - biện pháp vệ sinh dịch tễ) rất quan trọng đối với khả năng tiếp cận thị trường các nước của nông sản Việt Nam bởi dù thuế nhập cảng vào các nước có được cắt bỏ hết nhưng việc kiểm dịch, soát dư lượng kháng sinh, các đòi hỏi về nhãn mác bao gói... Của các nước vẫn ngăn chặn khả năng xuất khẩu của nông phẩm Việt Nam, thậm chí là còn rủi ro hơn nhiều so với quan thuế.

Nông sản với thị trường xuất khẩu

Thương thuyết TPP hệ trọng đến vấn đề này hiện hầu như chơi giải quyết được vướng mắc này của Việt Nam vì các nội dung thương lượng không đề cập tới vấn đề hạn chế quyền ban hành các điều kiện SPS, TBT mới của các nước TPP (và vì thế các nước này vẫn được đơn phương đưa ra các điều kiện SPS, TBT mới hoặc điều chỉnh, từ đó ngăn chặn việc nhập cảng của nông sản Việt Nam vào các nước này). Thực tiễn, thương thảo chỉ xoay quanh vấn đề cộng tác để xử lý vướng mắc, một vấn đề chỉ hệ trọng tới rút ngắn thời gian xử lý khiếu nại, còn các điều kiện kiểm dịch thì vẫn giữ nguyên.

Cũng hệ trọng tới nông sản, nhưng ở góc cạnh sinh sản, một số cam kết trong TPP ở những lĩnh vực tưởng như thường liên hệ nhưng nếu không được đàm phán quyết liệt cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất và triển vọng của hàng nông phẩm.

Tỉ dụ, trong dự thảo Chương lao động, nếu điều khoản về việc chặn và buộc trả lại tất cả hàng xuất khẩu được làm từ cần lao con trẻ tại biên giới không được chống chọi loại bỏ, những làng nghề thủ công, với những sản phẩm được làm ra trong quy mô hộ gia đình, với sự tham dự của trẻ thơ nông thôn Việt Nam sẽ là nhóm trước tiên phải chịu thiệt thòi.

Khuyến nghị đối với việc mở cửa thị trường nông phẩm

Trong các nước tham dự TPP, ba nước có ảnh hưởng nhiều đến ngành nông nghiệp và thị trường nông sản là: Úc, New Zealand và Mỹ.

Việt Nam đã có thỏa thuận mở cửa thị trường nông sản trong khuôn khổ FTA giữa ASEAN và hai nước Úc, New Zealand (AANZFTA).

Việc giảm thuế chắc chắn sẽ dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng luồng hàng nhập cảng từ các nước TPP vào Việt Nam với giá cả cạnh tranh. Nguy cơ này đặc biệt hiểm đối với nhóm hàng nông phẩm, vốn gắn liền với đối tượng dễ bị tổn thương trong hội nhập là dân cày.

Theo FTA này, Việt Nam đã cam kết mở cửa thị trường theo lịch trình cố định (tùy thuộc từng dòng thuế) cho nông sản đến từ Úc và New Zealand.

Lịch trình mở cửa theo FTA này (mặc dù vẫn còn một số năm nữa mới tới hạn loại bỏ thuế hoàn toàn, tùy loại nông sản) thực thụ là một thách thức đối với Việt Nam bởi đây là hai nước có năng lực cạnh tranh vào hàng cao nhất thế giới ở các sản phẩm ngành chăn nuôi bò (thịt bò, sữa), quả ôn đới (táo, cam...). Trong khi đó, khả năng tiếp cận thị trường hai nước này của nông phẩm Việt Nam hầu như thường đáng kể do dung lượng thị trường nhỏ (dân số của cả nước chỉ khoảng 25 triệu người), các đề nghị kỹ thuật (rào cản kỹ thuật) cao và khả năng cạnh tranh nội địa về nông sản của nước họ thuộc loại cao nhất trên thế giới.

Do đó, ngay cả với AANZFTA đã ký, lợi ích đối với nông phẩm của nước ta hầu như thường có, trong khi thách thức lại rất đáng kể. Do vậy, việc đưa ra cam kết mở cửa thị trường nông phẩm trong TPP đối với hai đối tác này chỉ nên dừng lại ở mức bằng với mức đã cam kết trong AANZFTA để tránh làm trầm trọng hơn tình hình.
Còn với Mỹ, Mỹ có thế mạnh trong các sản phẩm như sữa, thịt bò, thịt gia cầm, thịt heo và với mức thuế suất hiện tại, Việt Nam cũng đang nhập khá nhiều các mặt hàng này từ Mỹ. Nếu mở cửa, nguy cơ sản phẩm tương tự của Việt Nam gặp khó khăn khi cạnh tranh với sản phẩm du nhập từ Mỹ là rất lớn. Vì vậy, chúng tôi yêu cầu các hình thức bảo hộ sau:

Bảo hộ bằng lịch trình quan thuế: Cách thức bảo hộ này tuy không triệt để (chỉ thực hành được trong một khoảng thời gian hạn chế) nhưng khả thi trong khuôn khổ TPP. Do đó, cần tận dụng triệt để cơ chế này cho những mặt hàng nông phẩm mẫn cảm, đặc biệt là chăn nuôi. Trong trường hợp cụ thể của TPP, một kết quả thương lượng mở cửa nông sản, đặc biệt là sản phẩm chăn nuôi, theo lịch trình bằng với lịch trình mà Việt Nam đã cam kết trong AANZFTA là hợp lý và khả thi.

Bảo hộ bằng hạn ngạch quan thuế (TRQ - Tariff Rate Quota): Cách thức bảo hộ này dường như khả thi nhất phải biện pháp quan thuế không thể vận dụng được. Trên thực tế, đây cũng là cơ chế hợp lý hợp tình và do đó dễ được chấp nhận bởi các đối tác nói chung và đối tác trong TPP nói riêng;

Bảo hộ bằng các biện pháp kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ (TBT, SPS): Nhóm biện pháp này, mặc dù được thừa nhận trong WTO và được dùng rất phổ thông ở các nước đối tác TPP như Mỹ, Úc, New Zealand nhưng lại rất khó thực hiện trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam, bởi nhiều lý do, trong đó có thực tiễn là:

• Một số các biện pháp TBT, SPS nếu dùng sẽ phải được áp dụng không phân biệt đối xử giữa hàng trong nước và hàng nhập cảng - mà như vậy nếu tiêu chuẩn quá cao sẽ gây khó cho nông sản nội địa.

• Việt Nam chưa có đủ nguồn nhân lực, công cụ và kỹ năng để thực hiện việc bảo đảm tuân các biện pháp này của hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam.

Từ các thực tại này, trong quá trình thương lượng TPP, phương án tốt hơn cả là đề nghị các nước đối tác phát triển trong TPP có cam kết tương trợ kỹ thuật theo các hình thức cụ thể, khả thi và hiệu quả để thực hiện các biện pháp này.

_____________________

(*) Tổng giám đốc Vissan